Cùng với sự phát triển của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, việc sử dụng tinh trùng đã qua lọc, rửa và kích hoạt trở thành tiêu chuẩn điều trị trong IUI từ những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Nguyên tắc của IUI là làm giảm các tác động bất lợi của môi trường âm đạo và chất nhầy cổ tử cung lên tinh trùng; đồng thời đặt tinh trùng ở vị trí gần trứng nhất.
Phương pháp này được áp dụng rộng rãi cho nhiều chỉ định như: • Bất thường phóng tinh: lỗ tiểu đóng thấp, chấn thương tủy sống, xuất tinh ngược, bất lực do nguyên nhân thực thể hay tâm lý.
• Yếu tố cổ tử cung: chất nhầy cổ tử cung không thuận lợi, ít chất nhầy cổ tử cung.
• Vô sinh nam: tinh trùng ít, tinh trùng di chuyển kém, tinh trùng dị dạng, phối hợp các bất thường trên.
• Miễn dịch: kháng thể kháng tinh trùng ở nam giới (tự kháng thể) hoặc kháng thể kháng tinh trùng ở nữ giới ở cổ tử cung, trong huyết thanh.
• Vô sinh không rõ nguyên nhân.
• Lạc nội mạc tử cung: dạng nhẹ.
• Rối loạn phóng noãn: sau khi điều trị gây phóng noãn, người ta phối hợp với IUI để tăng tỷ lệ thành công của chu kỳ điều trị.
• Phối hợp nhiều bất thường trên.
• Bơm tinh trùng người cho (đối với chồng không có tinh trùng). Điều kiện để có thể thực hiện điều trị IUI gồm: người vợ có ít nhất 1 trong 2 vòi trứng thông và buồng trứng còn hoạt động và tinh dịch đồ chồng bình thường hoặc bất thường ở mức độ nhẹ và vừa. Mẫu tinh trùng sau rửa phải đạt tối thiểu 1 triệu tinh trùng di động.
Nguy cơ có thể gặp:
• Hội chứng quá kích buồng trứng: tỷ lệ thay đổi tùy theo đối tượng bệnh nhân và phác đồ thuốc sử dụng.
• Đa thai: thường không quá 20%, nếu kích thích nhiều nang noãn trưởng thành.
• Nhiễm trùng: tỷ lệ nhiễm trùng thấp, thường do kỹ thuật chuẩn bị tinh trùng hoặc không đảm bảo vô trùng khi thực hiện kỹ thuật bơm tinh trùng.
• Sẩy thai: tỷ lệ sẩy thai ở các chu kỳ hỗ trợ sinh sản nói chung cao hơn bình thường.
• Một số các biến chứng khác có thể gặp như: xuất huyết, đau bụng, viêm vòi trứng không nhiễm trùng, dị ứng…